Giờ làm việc: 7:30AM - 05:00PM
vien
Hotline: 0899.99.27.27
Văn hóa cà phê

Lịch sử và phong cách sản xuất cà phê ở Việt Nam

Sản xuất cà phê đã là một nguồn thu nhập chính của Việt Nam từ đầu thế kỷ 20. Được người Pháp du nhập lần đầu vào năm 1857, ngành cà phê Việt Nam đã phát triển thông qua hệ thống đồn điền, trở thành một lực lượng kinh tế lớn của đất nước.

Sau khi bị gián đoạn trong và ngay sau Chiến tranh Việt Nam, sản lượng đã tăng trở lại sau Đổi mới cải cách kinh tế, đạt 900.000 tấn mỗi năm vào năm 2000.

Năm 2009, Reuters báo cáo xuất khẩu cà phê của Việt Nam đạt "ước tính 1,13 triệu tấn" cho năm trước, cho rằng cà phê chỉ đứng sau gạo về giá trị nông sản xuất khẩu của Việt Nam.

Lịch sử cà phê Việt Nam

Cà phê du nhập vào Việt Nam vào năm 1857 bởi người Pháp và dần dần phát triển như một nhà sản xuất cà phê ở châu Á. Sản lượng cà phê tăng cao vào đầu thế kỷ 20 khi sản xuất quy mô nhỏ chuyển sang trồng rừng. Nhà máy cà phê hòa tan đầu tiên, Nhà máy Cà phê Coronel, được thành lập tại Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai vào năm 1969, với công suất sản xuất 80 tấn mỗi năm.

Văn hóa uống cà phê ở Việt Nam rất đa dạng và độc đáo.

Chiến tranh Việt Nam đã làm gián đoạn hoạt động sản xuất cà phê ở khu vực Buôn Ma Thuột, cao nguyên mà ngành công nghiệp này là trung tâm. Mặc dù hiếm khi xảy ra xung đột, khu vực này là ngã tư giữa Bắc và Nam và phần lớn là dân cư. Sau chiến thắng của Bắc Việt, ngành công nghiệp, giống như hầu hết nông nghiệp, được tập thể hóa, hạn chế doanh nghiệp tư nhân và dẫn đến sản lượng thấp.

Sau cải cách vào năm 1986, doanh nghiệp tư nhân một lần nữa được cho phép, dẫn đến sự phát triển vượt bậc trong ngành. Sự hợp tác giữa người trồng, người sản xuất và chính phủ dẫn đến việc xây dựng thương hiệu cà phê thành phẩm và xuất khẩu sản phẩm để bán lẻ. Chính trong thời gian này, nhiều công ty mới tham gia sản xuất cà phê đã được thành lập, bao gồm Trung Nguyên có trụ sở tại Đắk Lắk vào năm 1996 và Highlands Coffee vào năm 1998. Cả hai công ty này tiếp tục tạo dựng các thương hiệu lớn phân phối thông qua mạng lưới các cửa hàng cà phê rộng khắp.

Vào cuối những năm 1990, Việt Nam đã trở thành nhà sản xuất cà phê số 2 thế giới sau Brazil, nhưng sản lượng chủ yếu tập trung vào hạt Robusta - được coi là kém hơn Arabica do vị đắng của chúng - để xuất khẩu dưới dạng hàng hóa. Các sáng kiến ​​gần đây của chính phủ đã tìm cách cải thiện chất lượng cà phê xuất khẩu, bao gồm việc trồng rộng rãi hơn hạt cà phê Arabica, phát triển cà phê hỗn hợp và cà phê đặc sản như kopi luwak (tiếng Việt: cà phê chồn, "cà phê chồn").

Đến năm 2000, sản lượng cà phê đã tăng lên 900.000 tấn mỗi năm. Tuy nhiên, giá giảm khiến sản lượng hàng năm giảm xuống còn khoảng 600.000 tấn / năm vào năm 2003. [3] Năm 2009, Reuters báo cáo xuất khẩu cà phê của Việt Nam ở mức "ước tính 1,13 triệu tấn" cho năm trước đó, nói rằng cà phê chỉ đứng sau gạo về giá trị nông sản xuất khẩu từ Việt Nam.

Vụ cà phê 2013/2014 của nước này dự kiến ​​sẽ thu hoạch bội thu khoảng 17 triệu đến 29,5 triệu bao loại 60 kg. Sản lượng lớn như vậy sẽ làm tăng nguồn cung đậu toàn cầu và sẽ gây áp lực lên giá cà phê đã mất khoảng 10% kể từ tháng 10 năm 2012. Ngành cà phê của nước này đã bị ảnh hưởng; Trong số 127 doanh nghiệp xuất khẩu cà phê địa phương hoạt động trong năm 2012, 56 doanh nghiệp đã ngừng kinh doanh hoặc chuyển sang hoạt động kinh doanh khác sau khi vay không trả được nợ. Một số công ty, chẳng hạn như Intimex Group, nhà xuất khẩu cà phê hàng đầu của Việt Nam, sẽ được hưởng lợi từ vụ thu hoạch năm 2013. Intimex chiếm 1/4 lượng cà phê xuất khẩu của cả nước và đạt doanh thu 1,2 tỷ USD vào năm 2012.

Số nợ khó trả trong lĩnh vực cà phê có khả năng không trả được là 8 nghìn tỷ đồng (379 triệu USD), chiếm khoảng 60% tổng các khoản vay cho ngành cà phê ở Việt Nam.

Sản xuất cà phê tại Việt Nam

Hầu hết các nhà sản xuất cà phê là tư nhân và nhà nước, chẳng hạn như Công ty TNHH Cà phê Trung Nguyên, Công ty TNHH Hưng Phát, Công ty TNHH Trà và Cà phê Tâm Châu, Công ty TNHH Việt Thái Bình Dương được gọi là Vietcoffee, và Vinacafe (Tổng Công ty Cà phê Quốc gia Việt Nam ). Highlands Coffee, một nhà sản xuất thuộc sở hữu tư nhân, là công ty tư nhân đầu tiên tại Việt Nam đăng ký kinh doanh cho Người Việt Nam nước ngoài. Một số công ty quốc tế, chẳng hạn như Nestlé, đã được thành lập tại Việt Nam sau quá trình tự do hóa kinh tế trong những năm 1990.

Việt Nam là nhà sản xuất lớn thứ hai trên thế giới sau Brazil. Tuy nhiên, chất lượng của hạt cà phê thường hạn chế khả năng bán trên thị trường. Cà phê Robusta chiếm 97% tổng sản lượng của Việt Nam, với 1,29 triệu tấn xuất khẩu trong năm 2012, trị giá 1,4 tỷ USD. Sản lượng arabica dự kiến ​​sẽ tăng do việc mở rộng diện tích trồng trọt. [6] Các loại cà phê khác được trồng ở Việt Nam bao gồm Chari (Excelsa) và Catimor.

Cà phê phong cách Việt Nam

Cà phê kiểu Việt Nam (Buôn Ma Thuột) có những đặc điểm phân biệt với các loại cà phê khác và cách pha:

Các vùng trồng trọt của Buôn Ma Thuột đã được các nhà khoa học châu Âu ký hợp đồng với tư nhân phân loại thành vùng khí hậu vi mô. Ở những vùng khác nhau này, một số giống cà phê được trồng, bao gồm Arabica, Robusta, Chari (Excelsa), Catimor và một số giống Arabica bản địa như Arabica SE. Các nhà sản xuất cà phê Việt Nam pha trộn nhiều loại hạt để tạo ra sự cân bằng và đặc tính hương vị khác nhau.

Thông thường, cà phê được pha chế theo từng phần nhỏ trong máy pha / lọc một tách được gọi là phin. Nói chung cà phê được phục vụ bên bàn trong khi nó vẫn đang pha. Trước tiên, việc sử dụng sữa đặc có đường thay vì sữa tươi là do tính sẵn có và dễ bảo quản hơn trong khí hậu nhiệt đới. Sữa đặc cũng dùng để làm ngọt cà phê. Thực tiễn lâu đời đã khiến món ăn này trở thành sở thích ăn uống trong cộng đồng người Việt.

Khả dụng ở các quốc gia khác

Ở Mỹ, cà phê kiểu Việt Nam đôi khi bị nhầm lẫn giữa cà phê pha ở Louisiana với cà phê rang kiểu Pháp với rau diếp xoăn. Những người Việt Nam nhập cư đến bang này vào cuối thế kỷ 20 đã sử dụng cà phê kiểu New Orleans vì họ không thể có được cà phê do người Việt trồng.

Kiểu rang của Pháp phổ biến ở Louisiana tương tự như cà phê Việt Nam ở cách xay tương đối thô; do đó nó đã thay thế tuyệt vời cho việc nấu bia truyền thống trong bộ lọc / máy nấu bia phục vụ một lần. Tuy nhiên, ở Việt Nam, cà phê sản xuất trong nước có đặc điểm là rang vừa và không chứa rau diếp xoăn.

Nguồn: en.wikipedia.org

Hotline Chat FacebookChat ZalokYoutubeTikok